MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Lý Thị Lệ Ninh - Lớp QLKT 02, QH-2018-E
Trường
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế thế giới liên tiếp đón nhận khó khăn: Giá dầu thô giảm mạnh; Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn; Căng thẳng ngoại giao và kinh tế gia tăng giữa Mỹ và Iran; Đặc biệt là dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi
rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên toàn cầu dẫn đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm
lãi suất, nhiều nước Châu Âu đóng cửa biên giới nhằm ngăn chặn dịch bệnh lây lan đã đe dọa chuỗi
cung ứng và làm tăng nguy cơ thiếu hụt nguyên liệu sản xuất, sản phẩm tiêu dùng. Việt Nam cũng là nước chịu tác động mạnh và trực tiếp cả phía cầu và
phía cung.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, GDP quý 1 năm 2020 ước tính tăng
3,82% so với cùng kỳ năm trước, tăng trưởng tín dụng tăng 1,3% so với đầu năm,
lạm phát cơ bản bình quân quý I/2020 tăng 3,05% so với bình quân cùng kỳ năm
trước. Như vậy, mặc dù kinh tế Việt Nam trong quý 1 vẫn duy trì được mức tăng
trưởng thấp nhưng theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thì nền kinh tế sẽ “ngấm
đòn” sâu hơn nếu đình trệ kéo dài từ 2 quý trở lên.
Theo nhận định của TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV tại
“Báo cáo đánh
giá về tác động của Covid-19 lên các ngành kinh tế Việt Nam”, với phương pháp luận và phân tích, nhóm tác giả đánh giá có đến 9 ngành kinh tế
chịu tác động mạnh với mức độ thiệt hại "lớn" gồm (i) dệt may, da
giày, (ii) sản xuất sản phẩm từ gỗ, (iii) sản xuất kinh doanh thép, (iv) khai
khoáng dầu mỏ, (v) du lịch, (vi) vận tải, kho bãi, (vii) bán lẻ, (viii) tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, (ix) giáo dục đào tạo và 7 ngành chịu tác động ở mức
độ "vừa phải” gồm (i) nông lâm nghiệp thủy sản, (ii) các ngành phụ trợ nông nghiệp
(iii) sản xuất giấy, (vi) khai khoáng than, (v) xây dựng, (vi) kinh doanh bất động
sản (cho thuê mặt bằng thương mại, văn phòng cho thuê, khách sạn, căn hộ),
(vii) dịch vụ y tế.
Ngoài ra, trong quý 1/2020 cả nước có
18.600 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ
lệ tham gia lực lượng lao động trong quý cũng giảm ở mức kỷ lục 10 năm gần đây.
Nguyên nhân do chuỗi cung ứng bị gián đoạn, đứt gãy,
tổng cầu nền kinh tế giảm. Tuy nhiên, một số ngành không bị tác động thậm chí
có sự tăng trưởng do có sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng như thực phẩm, dược
phẩm, nông sản.
2. Phản ứng chính sách tiền tệ của các quốc gia đối với đại dịch
Covid-19
Nhận thức chung của các quốc gia là Covid-19
có tác động vô cùng lớn tới nền kinh tế, đòi hỏi những phản ứng chính sách
nhanh và quyết liệt để khắc phục. Các chính sách kinh tế vĩ mô nói chung, chính sách
tiền tệ nói riêng đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo những mục tiêu sau: (i) Đảm bảo nhân lực,
vật lực cho công tác chống dịch; (ii) Đảm bảo những nhu cầu thiết yếu cho đời sống
của người dân; (iii) Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ - đối tượng có tiềm lực
tài chính hạn chế, dễ tổn thương do hoạt động sản xuất bị ngưng trệ; (iv) Duy
trì tính thanh khoản của hệ thống tài chính; (v) Hỗ trợ một số ngành chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ chính sách kiểm soát dịch bệnh như hàng không, du lịch, bán
lẻ... Chỉnh phủ các nước triển khai đồng thời chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ để duy trì được các hoạt động kinh tế, xã hội ở mức hợp lý, ổn định
kinh tế vĩ mô trong bối cảnh tác động của dịch sẽ gia tăng, khả năng “bình phục”
nhanh và “bứt phá” cho nền kinh tế sau khi dịch qua đi.
Mỹ coi chính sách tiền tệ như là vác xin cho nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ của các nước tập trung vào
giảm lãi suất, giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, sử dụng các gói hỗ trợ tín dụng thông
qua công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và các giải pháp hỗ trợ tín dụng
khác như giãn nợ, giảm lãi suất, cho vay ưu đãi… Ví dụ như Chính phủ Mỹ liên tục cắt giảm lãi
suất xuống còn 0% - 0,25%, thưc hiện gói hỗ trợ 700 tỷ USD mua trái phiếu, chứng khoán được
đảm bảo, các NHTW Châu Âu giảm lãi suất, mua trái phiếu, mua tài sản. NHTW
Trung Quốc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sử dụng gói tái cấp vốn 800 tỷ RMB… hay các nước Đông Nam Á như Thái Lan,
Malaysia, Indonesia giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất…
3. Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam ứng phó với đại dịch
Covid-19
Trong quý 1 năm 2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để duy trì ổn
định vĩ mô, trong đó tập trung vào kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và đảm bảo
thanh khoản của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Trong công tác điều hành tỷ giá, NHNN đã chuẩn
bị các kịch bản khác nhau để ứng phó với các tác động quốc tế cũng như diễn biến
trong nước. Trong 3 tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ diễn biến ổn định,
tỷ giá đồng Việt Nam biến động trong biên độ khoảng 1,3 - 1,5%; có thể nói là ổn định so với sự biến động
rất mạnh của tỷ giá các đồng tiền một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thị trường ngoại hối của Việt Nam hoạt động thanh khoản được đảm bảo, tất cả
các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đều được đáp ứng.
Để đối phó với các tác động tiêu cực của dịch
bệnh Covid-19, thời gian qua, NHNN cũng đã chỉ đạo, có các giải pháp rất mạnh
về lãi suất, ban hành các quy định đầy đủ. Về lãi suất, từ cuối năm 2019 và đặc
biệt từ tháng 3/2020, NHNN đã chủ động kịp thời điều chỉnh giảm các lãi suất điều
hành ở mức giảm khá mạnh từ 0,5-1% các mức lãi suất điều hành. Bên cạnh việc tập
trung đáp ứng vốn tín dụng cho người vay vốn, NHNN đã chủ động thực hiện một số
các biện pháp ngay để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là ban hành Thông tư
01 ngày 13/3/2020, chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 tạo điều kiện cho khách
hàng vay vốn được cơ cấu lại thời hạn trả nợ kể cả khoản gốc và lãi đối với khoản
vay đến hạn trả nợ trong thời gian từ ngày 23/1/2020 là ngày Thủ tướng Chính phủ
tuyên bố dịch cho đến sau 03 tháng kể từ ngày Thủ tướng công bố hết dịch mà
không bị chuyển nợ quá hạn, không phải trả gốc, lãi trong giai đoạn này và vẫn tiếp tục được vay mới.
NHNN cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) công khai minh bạch các thủ tục, điều kiện với khách hàng và định kỳ báo cáo
kết quả thực hiện. Đây là những giải pháp quan trọng, cần thiết để hỗ trợ dòng
tiền và thanh khoản cho doanh nghiệp và khách hàng vay vốn tiếp tục duy trì và phục
hồi sản xuất - kinh doanh trong bối cảnh dịch bệnh còn đang diễn biến hết sức
phức tạp.
4. Khuyến nghị đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời gian tới
Trong giai đoạn phòng chống dịch:
Trong bối cảnh nguồn lực luôn có hạn, tổng cầu
nền kinh tế suy giảm, để thận trọng khi sử dụng các công cụ của chính sách tiền
tệ cần quan tâm đến các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục tập trung hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp
bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
để giảm chi phí sản xuất, kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp: giãn nợ,
giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản nợ đến hạn, giảm lãi suất, các loại phí,
giá dịch vụ, hỗ trợ cho vay mới vốn lưu động nhằm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh,
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp duy trì được khả năng
thanh khoản và không lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ hai, mở rộng thêm đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi như các
doanh nghiệp thuộc ngành vẫn còn tăng trưởng, có lợi thế kinh doanh tương đối gồm
kinh doanh online, thực phẩm, đồ dùng thiết yếu, khẩu trang, nước rửa tay, máy
đo thân nhiệt do nhu cầu tiêu dùng trong nước và nước ngoài tăng cao. Phát triển
ngay các gói sản phẩm ngân hàng chuyên biệt cho nhóm khách hàng này với các
chương trình hỗ trợ vay vốn: tín dụng hạn mức, L/C, thanh toán cho nhân viên… với
các dịch vụ ưu đãi kèm theo như bảo hiểm doanh nghiệp, bảo hiểm cho nhân viên… để một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước,
mặt khác khuyến khích xuất khẩu sang nước ngoài thu ngoại tệ bù đắp vào dự trữ
ngoại hối quốc gia khi nguồn ngoại tệ thu từ xuất khẩu dầu thô và khối FDI sụt
giảm, góp phần ổn định tỷ giá trong điều kiện các NHTW đồng loạt hạ lãi suất.
Chính sách tiền tệ - công cụ đặc biệt quan trọng để ứng
phó với đại dịch Covid-19
Thứ ba, chương trình ưu đãi cho vay đối với khối doanh nghiệp
FDI thông qua nới lỏng điều kiện cho vay nhằm giảm thiểu dòng vốn đầu tư rút khỏi
Việt Nam, ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối, tỷ giá hối đoái và môi trường đầu tư.
Mặt khác, thu hút các nguồn vốn FDI đang có xu hướng rút khỏi Trung Quốc có thể
chảy vào Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường giao dịch điện tử của hệ thống ngân hàng đảm
bảo an toàn và thuận
lợi cho khách hàng.
Thứ năm, thực hiện các gói tín dụng tái cấp vốn hoặc giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc của các NHTM nhằm duy trì năng lực cung ứng vốn cho nền kinh tế
khi khả năng thanh khoản của ngân hàng sụt giảm vì lý do giãn nợ, giảm lãi và
thiếu nguồn vốn huy động trong xã hội và giảm nguy cơ suy yếu của hệ thống
NHTM.
Thứ sáu, tăng cường các biện pháp ổn định tỷ giá hối đoái trong
ngắn hạn trên cơ sở cung cấp thanh khoản quốc tế trong phạm vi cho phép về nguồn
lực trên thị trường ngoại hối nội địa.
Thứ bẩy, chia sẻ thông tin và hợp tác với các NHTW của các quốc
gia trong khu vực để chủ động ứng phó khi chính sách tiền tệ của các quốc gia trong
khu vực và trên thế giới có sự thay đổi.
Trong giai đoạn phục hồi sau dịch:
Dịch Covid-19 gây ra nhiều khó khăn, thiệt hại đối với các nền kinh tế trên thế giới nhưng
lại là cơ hội cho những nền kinh tế nếu biết tận dụng từ việc điều chỉnh, sắp xếp
lại cục diện kinh tế, thương mại toàn cầu do dịch gây ra. Việt Nam cần đánh giá
các tác động của dịch tới các ngành, lĩnh vực, nền kinh tế đất ước; nghiên cứu
và dự báo những xu thế, cơ hội và xác định những động lực mới cho tăng trưởng
làm cơ sở đẩy nhanh việc cơ cấu lại nền kinh tế cho phù hợp với những chuyển dịch,
cấu trúc mới, như nhu cầu phát triển và chuyển đổi số, nhu cầu về lao động, xu
hướng đầu tư, xu hướng tiêu dùng...
Theo kế hoạch năm 2020, NHNN dự kiến tín dụng
tăng thêm cho nền kinh tế khoảng 900 nghìn tỷ đồng đến 1,1 triệu tỷ đồng, tức
là mức tăng dự báo khoảng 11-14%. Vì vậy, sau dịch Covid-19, NHNN cần phải đẩy
mạnh các giải pháp:
Thứ nhất, thực hiện tái cấp vốn để các NHTM cho các tập đoàn lớn,
đầu tàu vay để thúc đẩy nền
kinh tế phục hồi nhanh chóng.
Thứ hai, phát triển chương trình mua trái phiếu doanh nghiệp hoặc
các gói cho vay ưu đãi với mục đích hỗ trợ doanh nghiệp tái cấu trúc, định hướng
sản xuất kinh doanh mới.
Thứ ba, phát triển và mở rộng chương trình cho vay tiêu dùng
khách hàng cá nhân để kích cầu nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển gói tín dụng ưu đãi cho các đối tượng có thu
nhập thấp như gói tín dụng mua nhà ở, sản xuất kinh doanh nhỏ… vì đây là thị phần khách hàng rất tiềm năng ở Việt Nam đồng thời khuyến
khích đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, phát triển ngân hàng điện tử, ngân hàng số, xác thực điện
tử (e-KYC) để khách hàng không phải đến ngân hàng giao dịch trực tiếp đồng thời
rút ngắn thời gian của các giao dịch thanh toán qua hệ thống ngân hàng, tăng
tính thanh khoản toàn hệ thống ngân hàng.
Trong bất cứ tình huống nào, NHNN cũng cần có
phương án để điều hành hoạt động ngân hàng đảm bảo cung ứng đầy đủ vốn cho nền
kinh tế, kể cả trong giai đoạn phòng chống dịch cũng như phục hồi sau dịch với
mức lãi suất cho vay thấp hơn nhằm tạo cơ hội, tạo đà cho các
doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân hồi phục sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc
sống và từ đó thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng trở lại.
Tài liệu tham khảo:
1.
Báo
cáo đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế và các khuyến nghị chính
sách của Trường Đại học kinh tế Quốc dân.
2.
http://www.trungtamwto.vn/chuyen-de/15243-dai-dich-covid-19-tac-dong-manh-den-nganh-kinh-te-nao-cua-viet-nam
DOWNLOAD bài viết: